Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014
Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014
Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014
TÀI LIỆU THAM KHẢO MÔN TÌNH HÌNH NHIỆM VỤ CỦA TỈNH ĐỒNG NAI
TÀI LIỆU THAM KHẢO MÔN TÌNH HÌNH NHIỆM VỤ
CỦA TỈNH
ĐỒNG NAI
PHẦN I: VỊ
TRÍ, VAI TRÒ, TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA TỈNH ĐỒNG NAI
Vị trí:
Đồng Nai nằm ở vị trí trung tâm của VKT- TĐPN, tọa độ 10o 30’00’’ –11o 34’57’’
vĩ bắc và 106o 45’30’’ – 107o 35’00’’ kinh đông; phía tây giáp với TP. Hồ Chí
Minh, phía nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phía đông giáp tỉnh Bình Thuận,
phía đông bắc giáp tỉnh Lâm Đồng và phía tây bắc giáp tỉnh Bình Dương.
Địa
hình: Đồng Nai nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Di Linh và
đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình thấp dần từ bắc xuống nam, gồm 3 dạng chủ
yếu: địa hình đồi núi thấp độ cao 200 – 800m, chiếm 8% diện tích tự nhiên; địa
hình đồng bằng lượn sóng có độ cao 20 – 200m, chiếm 80% diện tích tự
nhiên, địa hình bãi bồi ven sông có độ cao dưới 20m, chiếm 12% diện tích tự
nhiên. Nhìn chung địa hình của Đồng Nai tương đối bằng phẳng, kết cấu đất có độ
cứng chịu nén tốt (trên 2kg/cm2), thuận lợi cho việc đầu tư phát triển công
nghiệp và xây dựng công trình với chi phí thấp.
Diện
tích tự nhiên: 5.894 km2
Khí hậu: Đồng
Nai nằm trong vùng nhiệt đới có gió mùa, khí hậu ôn hòa, ít bão lụt và thiên
tai, nhiệt độ bình quân hàng năm 25 – 260C, gồm 2 mùa mưa nắng, mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng
mưa tương đối cao, khoảng 1.500mm – 2.700mm, số giờ nắng trung bình hàng năm có
2.200 – 2.600 giờ.
Tổ chức
hành chính: Tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chánh với 171 đơn vị xã,
phường, thị trấn, gồm thành phố Biên Hòa là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa của tỉnh, thị xã Long Khánh và 9 huyện của tỉnh là Long Thành, Nhơn Trạch,
Vĩnh Cửu, Trảng Bom, Thống Nhất, Định Quán, Cẩm Mỹ, Xuân Lộc.
Dân số:
2.559.673 người, mật độ dân số: 386,511 người/km2 (năm 2010) với 31
dân tộc cùng chung sống trên địa bàn tỉnh.
Đất đai:
Theo phân loại của FAO/UNESCO, Đồng Nai có 10 nhóm đất:
Đất phù
sa: diện tích 27.929ha chiếm 4,76% diện tích tự nhiên, phấn bố tập
trung ở các khu vực đồng bằng ven sông Đồng Nai thuộc các huyện Nhơn Trạch,
Long Thành, Vĩnh Cửu.
Đất ngập
úng gley: diện tích 26.758ha chiếm 4,56% diện tích tự nhiên, phân bố
chủ yếu ở các khu vực đồng bằng ven sông Đồng Nai và trong các thung lũng núi
ngập nước mùa mưa, đất thích hợp cho trồng lúa nước và cây trồng cạn ngắn ngày
vào mùa khô.
Đất đen:
diện tích 131.604 ha chiếm 22,43% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung thành
các vùng lớn chủ yếu ở các huyện Tân Phú, Định Quán, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, đất có
hàm lượng mùn và đạm cao có thể sử dụng để phát triển nhiều cây trồng cho giá
trị kinh tế cao.
Đất xám:
diện tích 234.867 ha chiếm 40,04% diện tích tự nhiên, phân bố nhiều ở tất cả
các huyện, trong đó tập trung với diện tích lớn ở các huyện Vĩnh Cửu, Long
Thành và Nhơn Trạch. Đất có thể sử dụng để trồng nhiều loại cây trồng nếu cải
tạo tốt.
Đất đỏ:
diện tích 95.389 ha chiếm 16,26% diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở các
huyện Thống Nhất, Trảng Bom, Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Định Quán. Đất có độ phì nhiêu
khá cao thích hợp để phát triển nhiều cây công nghiệp. Ngoài ra còn có nhóm đất
khác chiếm tỷ lệ nhỏ trong diện tích đất tự nhiên như đất cát có 613 ha (chiếm
0,1%); đất bị xói mòn trơ sỏi đá diện tích 3.180 ha ( chiếm 0,54%); đất phát
triển trên đá phun trào 2.422 ha (chiếm 0,41%); đất nâu diện tích 11.377 ha (chiếm
1,94%) phân bố chủ yếu ở huyện Xuân Lộc, độ phì nhiêu thấp ít có tiềm năng để
phát triển cây trồng; đất phù sa cũ bạc màu diện tích 139 ha chiếm (0,02%).
Nhìn chung đất
đai Đồng Nai khá rộng rãi, có độ phì cao, vùng đất xám và bazan rộng lớn, thuận
lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và công nghiệp chế
biến.
Tài
nguyên thiên nhiên
Tài nguyên
nước: Đồng Nai có nguồn nước mặt khá dồi dào để cấp nước sinh hoạt và phát
triển sản xuất do mạng lưới dòng chảy sông, suối tương đối dày, trung bình 0,5
– 1,2 km/km2 và có sông Đồng Nai, sông La Ngà chảy qua dài 220 km và 70 km.
Sông Đồng Nai ngoài cấp nước cho sinh hoạt còn là tuyến đường thủy quan trọng
trong tỉnh.
Nguồn nước ngầm
có thể phục vụ cho khai thác nước công nghiệp không nhiều. Khu vực có khả năng
khai thác lớn nhất tập trung ở nam Long Thành và bắc Biên Hòa, khả năng khai
thác có thể đạt trên 10.000 m3 /ngày.
Nước khoáng nóng
phát hiện được ở 5 điểm, trong đó điểm suối Nho có trữ lượng 10.000 m3 /ngày.
Tài nguyên
rừng và đa dạng sinh học: Thảm thực vật rừng ở Đồng Nai thuộc hệ sinh thái
rừng ẩm nhiệt đới gió mùa mưa nhiều với hệ động – thực vật đa dạng về chủng
loài. Các kiểu rừng tự nhiên cơ bản có kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt
đới và kiểu rừng kín nửa rụng lá nhiệt đới ẩm với các họ thực vật đặc trưng là
tre, dẻ, kim giao, dầu, bằng lăng, bàng, điều tra cho thấy hiện có 614 loài
thực vật thuộc 390 chi, 110 họ thuộc 70 bộ trong 6 ngành thực vật khác nhau.
Động vật qua điều tra có 252 loài trong đó thú có 61 loài, chim có 120 loài, bò
sát có 54 loài, lưỡng cư có 12 loài. Đặc biệt rừng Nam Cát Tiên còn giữ được
nhiều loại động – thực vật quí hiếm như tê giác một sừng, bò Benteng, nai
Catoong, hổ, báo, sóc, nai, công, trĩ. Đồng Nai có nguồn tài nguyên rừng phong
phú, diện tích đất rừng hiện có 178.216 ha chiếm 30,36% diện tích đất tự nhiên
của tỉnh, trong đó diện tích đất có rừng là154.874ha gồm rừng tự nhiên có
110.117 ha, rừng trồng có 44.757 ha. Đây là điều kiện thuận lợi để tăng cường
môi trường sinh thái, phát triển du lịch và khai thác rừng kinh tế.
ài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản có thể khai thác công nghiệp bao gồm:
Nhóm khoáng kim loại: có 19 mỏ và
điểm quặng gồm: 2 mỏ laterit bôxit, 17 mỏ và điểm quặng vàng, một số điểm có
dấu hiệu khoáng hóa chì – kẽm, vàng – bạc, caxiterit. Khoáng hóa vàng tập trung
chủ yếu ở phía bắc của tỉnh (Tân Phú, Định Quán, Vĩnh Cửu) nhìn chung hàm lượng
thấp, riêng mỏ Vĩnh An và điểm quặng Suối Ty dự báo có trữ lượng triển vọng.
Ngoài ra còn có bôxit nguồn gốc phong hóa phát triển trên bazan, tập trung ở
khu vực Nam Cát Tiên, tầng dày trên 10m, trữ lượng dự báo cấp P2 là 450 triệu
m3.
Nhóm khoáng phi kim: có kaolin, bột
màu tự nhiên, đá vôi, thạch anh và nguyên liệu xây dựng như đá, cát, sét,
puzolan. Kaolin có ở Vĩnh Cửu, Long Thành và Nhơn Trạch; sét phân bố rộng rãi ở
25 điểm trong tỉnh, tập trung ở Long Thành; đá xây dựng có ở nhiều nơi trong
tỉnh với 50 điểm, tập trung nhiều ở Xuân Lộc, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Long Thành;
cát có ở thượng nguồn sông Đồng Nai và La Ngà.
Hệ thống giao thông:
Đường bộ: Tổng chiều dài mạng lưới đường bộ hiện có 6.202,7 km, trong
đó đường bê tông nhựa và láng nhựa có 1.592,3 km, đường bê tông xi măng 80,5
km. Mật độ các loại đường bộ bình quân 0,6 km/km2 . Tuy nhiên mật độ đường nhựa
và bê tông còn thấp, mới đạt 0,16 km/km2 , chiếm 26,7% tổng chiều dài toàn bộ
mạng lưới đường, nên chưa đáp ứng đủ điều kiện về hệ thống đường giao thông
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và đẩy nhanh phát triển kinh
tế – xã hội trên toàn tỉnh.
Hệ thống đường bộ của tỉnh Đồng Nai
gồm có: 244,5 km đường quốc lộ chạy ngang qua tỉnh (5 tuyến quốc lộ 1, 20, 51,
56 và 1K), 369,1 km đường tỉnh đều nối liền với các đường quốc lộ, 13,7 km
đường huyện và đường thành phố, 3.835,7 km đường xã, phường và 390,2 km đường
chuyên dùng cho các đơn vị kinh tế trong tỉnh trực tiếp quản lý.
Hệ thống bến bãi phục vụ vận tải
đường bộ hiện có: 8 bến xe, với 3 bến trung tâm tỉnh đang hoạt động ở thành phố
Biên Hòa và 5 bến trung tâm huyện, thị ở các huyện Tân Phú, Long Khánh, Xuân
Lộc và Vĩnh Cửu; 6 trạm xe gồm 2 trạm ở thành phố Biên Hòa và 4 trạm ở các
huyện Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu.
Đường sắt: Tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua tỉnh có chiều dài 87,5
km gồm 8 ga là tuyến lưu thông hàng hóa, hành khách quan trọng giữa tỉnh với
khu vực duyên hải miền Trung và khu vực phía bắc, ga Biên Hòa là ga chính hiện
đã trang bị hệ thống thông tin tín hiệu chạy tàu bán tự động trên toàn tuyến
đường sắt Bắc – Nam.
Đường thủy:
Đường sông: Tổng chiều dài các tuyến
đường sông tên địa phận của tỉnh là 532 km. Tổng chiều dài sông hiện đang khai
thác vận tải là 205 km, gồm 8 tuyến chính trên các sông Đồng Nai, sông Thị Vải,
sông Đồng Tranh, sông Cái, sông Nhà Bè, sông Lòng Tàu, sông Gò Gia và sông La
Ngà, trong đó quan trọng nhất là các tuyến trên sông Đồng Nai: dài 162 km là
tuyến vận tải đường thủy huyết mạch trong tỉnh và từ tỉnh đi TP. Hồ Chí Minh và
các tỉnh Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, có luồng tàu biển ra vào cảng Đồng Nai;
các tuyến thuộc hệ thống sông Đồng Nai (sông Nhà Bè 8,5 km và sông Lòng Tàu 9
km) có luồng tàu biển ra vào cảng Sài Gòn, cảng Cát Lái và khu cảng Phú Hữu,
Ông Kèo của tỉnh; tuyến sông Thị Vải có luồng tàu biển ra vào khu cảng Gò Dầu,
Phước An.
Hệ thống cảng biển: Tổng công suất thông qua các cảng nằm trên địa bàn tỉnh đạt
khoảng 3,5 triệu tấn/năm, cụ thể:
- Trên sông Đồng Nai có cảng tổng
hợp Đồng Nai, luồng vào cảng hiện đảm bảo cho tàu 2.000 DWT ra vào, công suất
thông qua đạt trên 600 nghìn tấn/năm và 2 cảng chuyên dụng hàng lỏng chủ yếu là
gas gồm cảng SCT Gas và cảng VT Gas (tại địa phương Long Bình Tân – TP. Biên
Hòa) có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải dưới 1.000 tấn.
- Trên sông Thị Vải có cảng tổng hợp
Gò Dầu gồm khu A (phục vụ KCN Gò Dầu), có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải
2.000 DWT và khu B (gồm 2 bến tổng hợp), hiện bến 2 có thể đón tàu 12.000 DWT.
Ngoài ra, còn có các cảng chuyên dùng như: cảng VEDAN (Phước Thái) có khả năng
tiếp nhận tàu hàng khô 10.000 DWT và tàu hàng lỏng 12.000 DWT, cảng nhà máy
Unique Gas chuyên tiếp nhận hàng khí hóa lỏng và có khả năng tiếp nhận tàu
6.500 DWT.
Bên cạnh hệ thống các cảng nói trên,
Đồng Nai còn có hệ thống các bến cảng sông, với hàng hóa thông qua đạt khoảng
142 – 205.000 tấn/năm. Các bến cảng chính gồm:
- Bến cảng chuyên dụng của các doanh
nghiệp và hàng container (tại khu vực phường An Bình, TP. Biên Hòa): Trên sông
Cái có bến COGIDO, bến Tín Nghĩa, bến Con Cò sử dụng cho sà lan 500 – 1.000
tấn; trên sông Đồng Nai có bến bột ngọt Ajinomoto, bến cảng của công ty vận tải
sông biển và 6 bến của cảng hàng chuyển container sử dụng cho sà lan từ 500 –
3.000 tấn.
- Bến vật liệu xây dựng: Có khoảng
gần 50 bến nằm trên các sông Buông, sông Đồng Nai và các khu vực Hóa An, Long
Thành, Vĩnh Cửu, Đại An, Thiện Tân, hàng hóa chủ yếu là nguyên vật liệu xây
dựng từ khai thác tại chỗ, sử dụng cho sà lan 500 - 1000 tấn.
Đường hàng không: Hiện có sân bay Biên Hòa rộng 40 km2 đang hoạt động thuộc
Bộ Quốc phòng quản lý. Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ xây dựng sân bay quốc
tế Long Thành 100 triệu khách/năm.
Cấp điện: Sử dụng nguồn điện chung của lưới điện quốc gia, gồm các cấp
điện áp: 110kV, 35kV, 22kV, 15kV với tổng chiều dài mạng lưới đường dây truyền
tải điện gần 6.000 km. Hệ thống phân phối 15 – 22kV với các trạm biến áp
1.350.000 kVA đã phủ kín khắp toàn tỉnh, đến 100% số xã, phường và thị trấn,
đáp ứng đủ nhu cầu cấp điện ổn định cho các nhà đầu tư.
Cấp nước: Tổng công suất cấp nước của Đồng Nai đạt 350.000 m3 /ngày,
đủ cung cấp cho các khu đô thị và KCN trong tỉnh.
- Thông tin liên lạc: Mạng lưới điện
thoại, viễn thông của tỉnh Đồng Nai đã trực tiếp liên lạc được với các tỉnh,
thành phố trong nước và các nước trên thế giới, kể cả dịch vụ Internet tốc độ
cao (ADSL), truyền số liệu (DDN, XDSL, Frame relay, Leased line…), Video
Conference và các dịch vụ chuyển phát nhanh Fedex, DHL, EMS, CPN…
Ngân
hàng: Để phục vụ cho nền kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh, Đồng Nai
có một hệ thống ngân hàng bao gồm các chi nhánh ngân hàng thương mại nhà nước,
ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng trung ương và quỹ tín dụng cơ sở.
Hoạt động ngân hàng trên địa bàn tỉnh thực hiện tốt vai trò huy động vốn và cho
vay vốn sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế trên địa bàn. Các ngân
hàng đã không ngừng đổi mới qui trình nghiệp vụ, hiện đại hóa công nghệ, phát
triển nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, tiện ích, chất lượng phục vụ ngày
càng cao.
Giáo dục
và đào tạo: Sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhân lực của tỉnh Đồng Nai
không ngừng phát triển, theo hướng đa dạng hóa về loại hình, phương thức và
nguồn lực. Các ngành học, bậc học của tỉnh phát triển nhanh về qui mô trường
lớp, học sinh. Về hệ thống trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực của Đồng Nai hiện
có một trường đại học dân lập, 3 trường cao đẳng, 8 trường trung học chuyên
nghiệp. Ngoài ra, còn có 63 trung tâm, cơ sở dạy nghề, trong đó có 23 cơ sở dạy
nghề của Nhà nước.
Y tế:
Đến nay, ngành y tế Đồng Nai đã có mạng lưới đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả
công tác khám – điều trị, các chương trình y tế cộng đồng và chăm sóc sức khỏe
nhân dân trên địa bàn. Về mạng lưới cơ sở y tế bao gồm toàn tỉnh có 257 cơ sở y
tế. 100% xã, phường có trạm y tế, 100% trạm y tế có nữ hộ sinh, 100% ấp, khu
phố có nhân viên y tế được đào tạo và hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Toàn
tỉnh có 19 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và 13 phòng khám đa khoa khu vực với
5.675 giường bệnh, đạt 19 giường bệnh/vạn dân. Toàn tỉnh có 5.703 cán bộ y tế,
đạt 22,5 cán bộ y tế/vạn dân. Trong đó số bác sỹ là 1.267 người, đạt 5 bác
sỹ/vạn dân.
Giải
quyết việc làm hàng năm: Trên 76.000 lao động.
Các khu
Công nghiệp:
Sản xuất công
nghiệp của tỉnh Đồng Nai liên tục phát triển nhanh và đạt được nhịp độ tăng
trưởng cao. Các ngành có tỷ trọng cao trong giá trị sản xuất công nghiệp là chế
biến nông sản thực phẩm, hóa chất, máy móc thiết bị, điện, điện tử, giày da,
may mặc, dệt, khai thác cát đá và vật liệu xây dựng…
Đồng Nai là tỉnh
phát triển KCN đầu tiên tại vùng Nam bộ Việt Nam, và hiện là tỉnh dẫn đầu phát
triển KCN tại Việt Nam. - Trong 5 năm 2006 - 2010, đã phát triển thêm 11 khu
công nghiệp, nâng tổng số khu công nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên
30 khu với diện tích 9.573 ha. Về phát triển các cụm công nghiệp, đến cuối năm
2010 toàn tỉnh có 43 cụm công nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích là 2.143
ha trong đó có 2 cụm công nghiệp đã đầu tư hoàn thiện hạ tầng, 6 cụm công
nghiệp đang đầu tư hạ tầng số còn lại đang trong quá trình bồi thường giải
phóng mặt bằng và lập thủ tục đầu tư.
Kinh tế
- Thương mại–Dịch vụ–Du lịch
Cơ cấu kinh tế
của tỉnh chuyển dịch theo đúng định hướng, tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây
dựng tăng từ 57% năm 2005 lên 57,2% năm 2010; dịch vụ từ 28% lên 34% và giảm
ngành nông - lâm - thủy sản từ 14,9% xuống còn 8,7%. Cơ cấu lao động cũng
chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ trọng lao động khu vực nông nghiệp từ 45,5%
năm 2005 xuống còn 30% năm 2010, lao động phi nông nghiệp tăng từ 54,5% năm
2005 lên 70% năm 2010.
Đồng Nai đang là
một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về sản xuất thức ăn gia súc, có nhiều
trang trại chăn nuôi quy mô công nghiệp, là nguồn nguyên liệu quan trọng cho
công nghiệp chế biến. Thị trường nội địa được khai thác có hiệu quả, lưu thông
hàng hóa thông suốt đáp ứng kịp thời hàng hóa, vật tư cho nhu cầu tiêu dùng của
dân cư và của các ngành sản xuất. Hoạt động xuất nhập khẩu ở Đồng Nai
không ngừng tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân là 17,2%/năm.
Đến nay, hàng hóa của các doanh nghiệp Đồng Nai đã xuất khẩu sang 60 nước trên
thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Đồng Nai là cà phê, hạt điều nhân,
mộc tinh chế, may mặc, giày dép …
Về dịch vụ, các
dự án nhà ở, khách sạn, bệnh viện, trường học, các dịch vụ vận tải công cộng,
bưu chính viễn thông, tín dụng ngân hàng… ngày càng phát triển nhanh ở Đồng Nai
đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của dân cư và các thành phần kinh tế.
Về du lịch, Đồng
Nai là vùng đất có nền văn minh cổ xưa với nhiều di tích, văn hóa lịch sử giá
trị và điều kiện tự nhiên thuận lợi về nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch
vườn, du lịch lễ hội văn hóa… Một số vùng có tiềm năng phát triển du lịch tại
Đồng Nai như Vườn quốc gia Cát Tiên, sông Đồng Nai, Văn Miếu Trấn Biên, thác
Mai, hồ nước nóng…
PHẦN II: KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP – DỊCH VỤ TẠI ĐỒNG NAI
- Đồng Nai cách Thành phố Hồ Chí Minh
khoảng 30 km, có điều kiện tự nhiên về thổ nhưỡng, khí hậu và điều kiện hạ tầng
giao thông thuận lợi, rất phù hợp cho việc phát triển các KCN. Hiện nay, Đồng
Nai là tỉnh dẫn đầu cả nước về số lượng các KCN. Các KCN này đều nằm lân cận
đường quốc lộ 1 và quốc lộ 51 là các tuyến giao thông huyết mạch, rất thuận lợi
cho việc cung cấp điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và nguồn
nhân lực…
Trong 5 năm 2006
- 2010, Đồng Nai đã phát triển thêm 11 khu công nghiệp, nâng tổng số khu công
nghiệp được thành lập trên địa bàn tỉnh lên 30 khu với diện tích 9.573 ha. Về
phát triển các cụm công nghiệp, đến cuối năm 2010 toàn tỉnh có 43 cụm công
nghiệp được quy hoạch với tổng diện tích là 2.143 ha trong đó có 2 cụm công
nghiệp đã đầu tư hoàn thiện hạ tầng, 6 cụm công nghiệp đang đầu tư hạ tầng số
còn lại đang trong quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng và lập thủ tục đầu
tư.
Việc hình thành
và phát triển các KCN của tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua đã góp phần thúc
đẩy phát triển công nghiệp dịch vụ, tăng trưởng kinh tế, hình thành các trung
tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao, đồng thời cũng tạo ra nhiều công ăn việc
làm cho người lao động khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Hiện có hơn 300 ngàn
lao động đang làm việc trong các KCN.
Từ kết quả đạt
được trong thời gian qua đưa Đồng Nai trở thành tỉnh đứng đầu cả nước về phát
triển KCN, Ban quản lý các KCN rút ra một số kinh nghiệm sau:
1. Chính sách
pháp luật về đầu tư nước ngoài của Nhà nước Việt Nam không ngừng được cải tiến
theo hướng công khai, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế, ngày càng
thuận lợi, tạo sự yên tâm, tin tưởng của nhà đầu tư vào môi trường đầu tư của
Việt Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng. Chính sách ưu đãi về thuế cho doanh
nghiệp trong KCN là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư đến với KCN.
2. Chính quyền
địa phương luôn luôn thực hiện phương châm “Đồng hành cùng doanh nghiệp”, xử lý
kịp thời các vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các cơ quan luôn tích cực đẩy mạnh công tác cải tiến thủ tục hành chính theo
hướng đơn giản, nhanh chóng, nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ doanh
nghiệp vì thủ tục hành chính nhanh chóng, đơn giản giúp doanh nghiệp tiết kiệm
chi phí, giảm giá thành và doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Các cơ quan
quản lý nhà nước trực tiếp các KCN thực hiện hầu hết thủ tục hành chính theo cơ
chế một cửa là Ban quản lý KCN, đây là bước cải cách hành chính mạnh mẽ, đã và
đang phát huy tác dụng.
3. Tỉnh Đồng Nai
đặc biệt quan tâm đến sự phát triển KCN của tỉnh nhà; tập trung xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng KCN hoàn thiện, chất lượng tốt là một nhân tố quan
trọng quyết định tính hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư đến với các KCN ở Đồng
Nai. Hạ tầng ngoài KCN cũng được chính quyền quan tâm xây dựng đồng bộ với hạ
tầng trong KCN để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của các nhà đầu tư.
4. Công tác tiếp
thị, mời gọi đầu tư cũng được chú trọng qua việc tỉnh Đồng Nai đã lập các đoàn
công tác đi xúc tiến đầu tư tại nhiều nước có nền kinh tế phát triển như Hoa
Kỳ, Anh, Pháp, Nhật, Hàn Quốc… nhằm quảng bá, kêu gọi các tập đoàn kinh tế có
tiềm năng đầu tư vào KCN và tỉnh Đồng Nai. Bên cạnh đó, chính quyền tỉnh Đồng
Nai hết sức quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp để các doanh nghiệp ổn định và phát triển, từ đó các nhà
đầu tư này là cầu nối quan trọng để quảng bá hình ảnh môi trường đầu tư hấp dẫn
của Đồng Nai đến các nhà đầu tư tiềm năng trong tương lai.
5. Không ngừng
nâng cao các dịch vụ phục vụ doanh nghiệp như đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp
dịch vụ thông tin viễn thông, dịch vụ ngân hàng, vận chuyển, kho bãi… đặc biệt
chú trọng đến chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
Định
hướng phát triển các khu công nghiệp ở Đồng Nai
- Đến năm 2015,
tỉnh Đồng Nai thành lập 33 KCN với tổng diện tích 10.400 ha.
- Các KCN tiếp
tục hoàn thiện đồng bộ cơ sở hạ tầng trong và ngoài khu, đảm bảo phát triển KCN
gắn liền với bảo vệ môi trường sạch và bền vững.
- Trong thời
gian tới, định hướng kêu gọi đầu tư của tỉnh Đồng Nai và các KCN là thu hút có
chọn lọc các dự án đầu tư như dự án công nghệ tiên tiến, dự án có sản phẩm mang
tính cạnh trạnh toàn cầu, ít gây ô nhiễm môi trường.
- Tiếp tục đẩy
mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư, chú trọng thu hút các tập đoàn kinh
tế lớn, có tiềm lực về vốn, công nghệ, thị trường.
- Các KCN có cơ
sở hạ tầng phát triển hoàn thiện, quan tâm phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho
hoạt động của doanh nghiệp trong KCN như cung cấp nguồn nhân lực, nhà ở cho
người lao động, dịch vụ thương mại, hoạt động văn hóa gắn KCN để đảm bảo phát
triển ổn định, lâu dài.
- Công nghiệp:
Nhiệm vụ chủ yếu:
- Phát triển mạnh các ngành công
nghiệp chủ lực, có lợi thế so sánh, nhất là các ngành công nghiệp chế biến nông
sản thực phẩm; điện, điện tử; cơ khí, hóa chất; dệt, giày da, may mặc; sản xuất
vật liệu xây dựng; gốm mỹ nghệ, chế biến gỗ.
- Khuyến khích các ngành công nghiệp
sử dụng nhiều lao động về địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa; chuyển một số
ngành công nghiệp từ hình thức gia công sang sản xuất thành phẩm, xuất khẩu
trực tiếp, nhằm gia tăng giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
- Đẩy nhanh tốc độ đổi mới công
nghệ, phấn đấu bình quân mỗi năm đổi mới công nghệ của 20 – 25% số doanh nghiệp
của các ngành công nghiệp chủ lực.
- Chú trọng thu hút đầu tư từ những
đối tác mạnh, tập đoàn lớn có tiềm lực về công nghệ, vốn, thị trường. Trong đó
cần quan tâm thu hút các dự án đầu tư thuộc các ngành công nghiệp công nghệ
cao, công nghiệp sạch.
Phát triển các ngành công nghiệp bổ
trợ gắn kết với các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp có lợi thế so sánh
của tỉnh.
Giải pháp
thực hiện:
- Tuyên truyền rộng rãi chủ trương
chính sách về phát triển công nghiệp trên địa bàn. Trong đó:
+ Công khai hóa công tác quy hoạch
phát triển ngành, các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển ngành công
nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Tư vấn cho các nhà đầu tư và doanh
nghiệp trong các lĩnh vực đầu tư, trên cơ sở các danh mục ngành nghề, sản phẩm
ưu tiên đầu tư, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến công tác thẩm
định dự án đầu tư, cấp phép, nhằm hạn chế được những rủi ro và lãng phí trong
đầu tư.
+ Nâng cao hơn nữa hoạt động đối
thoại trực tiếp với cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước theo phương châm
“Chính quyền đồng hành cùng doanh nghiệp.”
- Hỗ
trợ đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp nhà nước:
+ Đẩy mạnh việc triển khai hỗ trợ
đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trên
địa bàn.
+ Ưu tiên nguồn vốn ưu đãi cho các
dự án đầu tư sản phẩm công nghiệp chủ lực, ngoài những chính sách chung của nhà
nước; cần có nguồn kinh phí hỗ trợ cho các DNNN thực hiện các chương trình
nghiên cứu cải tiến công nghệ.
- Xây dựng
chương trình hỗ trợ phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực cho từng giai
đoạn, trong đó tập trung vào các chính sách hỗ trợ:
+ Hỗ trợ về xúc tiến thương mại,
phát triển thị trường.
+ Hỗ trợ thiết kế sản phẩm, lựa chọn
và chuyển giao công nghệ.
+ Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư.
+ Hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, sở hữu công nghiệp.
+ Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực.
- Xây dựng
lộ trình chọn lọc, phân loại các dự án thu hút đầu tư vào các KCN:
+ Trên cơ sở rà soát mục tiêu, ngành
nghề kinh doanh từng KCN, xác định lại ngành nghề thu hút đầu tư vào từng KCN
theo thứ tự ưu tiên cho các dự án công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao... từng
bước hạn chế các dự án có công nghệ sản xuất gây nhiều ô nhiễm, các dự án sử
dụng nhiều lao động trong các khu đô thị.
- Nghiên cứu xây dựng đề án thu hút
đầu tư vào các KCN, CCN để quy định, triển khai lộ trình thu hút đầu tư đối với
từng ngành nghề, từng loại dự án và tiêu chí bố trí dự án vào KCN để đảm bảo
nâng cao chất lượng dự án đầu tư.
- Kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối
với các đơn vị kinh doanh hạ tầng khu, cụm công nghiệp.
+ Hiện nay, các doanh nghiệp đầu tư
vào khu công nghiệp do các công ty kinh doanh hạ tầng đầu tư, theo quy định,
các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng gần như toàn quyền trong việc lựa chọn, mời gọi
dự án đầu tư. Vì mục tiêu kinh doanh, nên trước mắt các Công ty kinh doanh hạ
tầng sẽ quan tâm nhiều đến diện tích đất cho thuê mà ít quan tâm đến các vấn đề
về ngành nghề, vốn đầu tư, công nghệ, lao động... Do đó, thực hiện tốt giải
pháp này sẽ thu hút được những dự án theo đúng định hướng, hạn chế những vấn đề
khó khăn, tồn tại phát sinh.
- Tập
trung đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển công nghiệp:
+ Tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng
trong các KCN tập trung, CCN, đồng bộ với cơ sở hạ tầng ngoại khu gồm điện,
nước, thông tin, các dịch vụ kỹ thuật.
+ Chú trọng việc xây dựng kết cấu hạ
tầng ngoài hàng rào KCN, như nhà ở công nhân, bệnh viện, trường học, trung tâm
đào tạo nghề, khu thương mại, khu vui chơi giải trí và khu dân cư.
+ Chú trọng công tác quy hoạch và
xây dựng hạ tầng kết nối giữa các KCN với các trung tâm đô thị và các KDC, CCN.
- Nghiên
cứu hình thành các khu công nghiệp chuyên ngành:
+ Xây dựng các khu công nghiệp
chuyên ngành, nhất là các khu công nghiệp chuyên ngành chủ lực, nhằm xây dựng
chính sách ưu đãi riêng cho từng chuyên ngành và hạn chế những ảnh hưởng về môi
trường trong việc phát triển các KCN đa ngành.
+ Thí điểm mô hình KCN do nhà nước
đầu tư hạ tầng và cho thuê lại không vì mục đích kinh doanh, để đảm bảo phí sử
dụng hạ tầng có tính cạnh tranh cao, chủ đầu tư có thể giao cho ban quản lý các
KCN và mô hình này trước mắt ưu tiên thu hút các nhà đầu tư trong nước và những
lĩnh vực công nghiệp, kỹ thuật cao, các KCN ở các địa bàn khó khăn.
- Phát triển
CCN, dịch vụ phục vụ phát triển công nghiệp:
+ Hỗ trợ lãi
suất vay vốn cho xây dựng hạ tầng các CCN, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng nhà ở
công nhân, nhất là lĩnh vực thu hút nhiều lao động như may mặc, giày dép...
+ Hỗ trợ về vốn
ưu đãi cho các doanh nghiệp làm dịch vụ phục vụ đưa rước công nhân trên địa
bàn, dịch vụ trong khu công nghiệp... để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập và phát triển.
- Tăng
cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài:
+ Khuyến khích
mạnh mẽ việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu, công nghiệp chế biến tinh, công nghiệp phục vụ phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn gắn với công nghệ hiện đại.
+ Xúc tiến đầu
tư, trong đó tập trung hướng thu hút vào các tập đoàn lớn, có tiềm lực về vốn,
công nghệ, thương hiệu... Các nhà đầu tư vào các ngành nghề mũi nhọn như cơ khí
chế tạo, công nghiệp điện điện tử, lĩnh vực công nghệ cao, vật liệu mới...
+ Tiếp tục nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài, nhất
là trong việc cải cách thủ tục hành chính.
- Đẩy mạnh phát
triển công nghiệp nông thôn:
+ Đẩy mạnh phát
triển công nghiệp nông thôn, thực hiện đẩy nhanh công nghiệp hóa và hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn, nhanh chóng hình thành quỹ khuyến công từ nguồn ngân
sách nhà nước và huy động sự đóng góp của của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước.
+ Củng cố và
phát triển lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, xây dựng hệ thống giải
pháp hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực, vốn chuẩn bị đầu tư, ứng dụng khoa học
công nghệ, tiếp thị, phát triển thị trường... từ các nguồn quỹ khuyến công.
+ Xây dựng
chương trình cơ khí phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn. Tăng cường chính sách hỗ trợ về vay vốn, thuế thu nhập và thị trường;
khuyến khích, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ mới.
Dịch vụ:
Nhiệm vụ:
- Phát triển
mạnh các loại hình thương mại – dịch vụ phục vụ các khu công nghiệp và dân
sinh. Đầu tư phát triển một số trung tâm thương mại, siêu thị lớn, hiện đại.
Phát triển và nâng cấp các chợ gắn các điểm dịch vụ cung ứng vật tư sản xuất,
mua bán nông sản, thực phẩm.
Phát triển mạnh
các loại hình du lịch sinh thái, du lịch vườn và du lịch văn hóa lễ hội gắn với
việc bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, khu bảo tồn thiên nhiên.
- Phát triển
nhanh các ngành dịch vụ chất lượng cao, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng,
công nghệ – thông tin, viễn thông, vận tải, bảo hiểm, y tế, tư vấn. Phát triển
nhanh mạng lưới xe buýt theo quy hoạch, phát triển vận tải đường thủy nội địa.
Phát triển dịch vụ nhà ở, dịch vụ giải trí, văn hóa cho công nhân.
- Phát triển thị
trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường công nghệ… nhằm thu hút
các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại,
xúc tiến đầu tư và thành lập quỹ xúc tiến thương mại.
- Phối hợp với
các ngành của trung ương xây dựng tổng kho trung chuyển trên địa bàn tỉnh.
Giải pháp
thực hiện:
Về dịch vụ du
lịch:
- Thực hiện quy
hoạch phát triển các tuyến du lịch như: tuyến du lịch sông Đồng Nai; tuyến Vĩnh
Cửu – Thống Nhất – Trảng Bom; tuyến Long Thành – Nhơn trạch; tuyến Tân Phú –
Định Quán; tuyến Xuân Lộc – Long Khánh – Cẩm Mỹ.
- Hình thành
mạng lưới dịch vụ du lịch: Thiết lập hệ thống dịch vụ du lịch; nâng cấp và cải
tạo các nhà hàng, khách sạn, các công viên, khu vui chơi giải trí… và xây dựng
mới các trung tâm thương mại; phát triển trung tâm văn hóa du lịch Bửu Long kết
hợp vui chơi giải trí với du lịch văn hóa lịch sử; tổ chức các lễ hội
truyền thống, các lễ kỷ niệm mang tính lịch sử làm phong phú loại hình du lịch
văn hóa kết hợp với việc phát triển các nghề truyền thống; xây dựng mạng lưới
kinh doanh ăn uống, đưa các món ăn đặc sản địa phương vào các chương trình tour
nhằm tận dụng hết các lợi thế về ẩm thực của khu vực.
- Liên kết với
các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam: Phát triển các điểm du lịch
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trở thành các điểm dừng lý tưởng với nhiều loại hình
du lịch đặc thù để nối với các tuyến từ Thành phố Hồ Chí Minh – Đà Lạt hoặc
Thành phố Hồ Chí Minh – Phan Thiết; liên kết các điểm du lịch của tỉnh nối tour
với các điểm khác ngoài tỉnh thành các chương trình tour du lịch hoàn chỉnh;
hợp tác đầu tư về du lịch với các tỉnh, thành phố lân cận, tăng cường hỗ trợ
lẫn nhau làm phong phú các tour liên tỉnh; đẩy mạnh các hoạt động mời gọi đầu
tư xây dựng, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn về
du lịch; đẩy mạnh hình thức nối tour với các công ty du lịch lớn đưa khách du
lịch quốc tế đến tỉnh tham quan, tìm hiểu văn hóa.
- Động viên thu hút rộng rãi các nguồn
vốn trong xã hội nhằm tăng đầu tư, nâng cao chất lượng, số lượng các dịch vụ
công cộng. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa bằng cách áp dụng cơ chế tài chính phù
hợp đối với các đơn vị sự nghiệp.
- Phân cấp mạnh
các nguồn thu cho ngân sách cấp dưới, nhất là ngân sách cấp xã, tiến tới ngân
sách cấp xã tự chủ động cân đối thu – chi ngân sách cấp mình.
- Chính sách
phân phối (chi ngân sách) công bằng hợp lý, ổn định và bền vững nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
- Cơ cấu chi
ngân sách địa phương theo hướng tăng đầu tư phát triển nguồn nhân lực, đầu tư
kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động. Tăng mức chi cho giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ trong tổng
chi ngân sách địa phương. Đảm bảo vốn cho các công trình trọng điểm và các mục
tiêu, hỗ trợ đầu tư phát triển hợp lý cho các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu
số.
- Bố trí chi
ngân sách cho những nhiệm vụ quan trọng thiết yếu, triệt để xóa bỏ bao cấp trực
tiếp, hạn chế bao cấp gián tiếp qua ngân sách Nhà nước, gắn cơ cấu chi ngân
sách nhà nước với cải cách thủ tục hành chính phù hợp chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước.
- Xây dựng chính
sách cơ chế tài chính doanh nghiệp bình đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khai thác và phát
huy mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài doanh nghiệp, phát triển sản xuất kinh
doanh đồng thời nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thị
trường quốc tế.
- Nâng cao năng
lực và hiệu quả giám sát tài chính bằng các biện pháp kiểm toán, thanh tra tài
chính, chế độ báo cáo thông tin, đảm bảo mọi hoạt động tài chính đều công khai
minh bạch.
Về
dịch vụ tài chính – ngân hàng:
- Các tổ chức
tín dụng căn cứ vào nhu cầu vốn phát triển kinh tế của địa phương để đẩy mạnh
huy động vốn tại chỗ, kể cả huy động bằng ngoại tệ, bằng vàng nhằm cải thiện
khả năng cân đối vốn tại chỗ. Sử dụng các giải pháp tăng cường tiếp thị, tuyên
truyền quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, cải tiến và đơn
giản thủ tục, đưa ra các hình thức huy động mới, phát hành các kỳ phiếu, tín
phiếu, mở các công ty, đại lý kinh doanh chứng khoán tăng thêm nguồn vốn để đầu
tư dài hạn, phiếu tiết kiệm ký danh hoặc vô danh có khả năng chuyển nhượng dễ
dàng, gửi rút tiền thuận lợi, có thể gửi một nơi nhưng rút được ở nhiều nơi…
Huy động vốn với nhiều thời hạn, với nhiều hình thức trả lãi phù hợp với nhu
cầu và thị hiếu của nhiều đối tượng khách hàng.
- Sử dụng một
phần nguồn vốn huy động ngắn hạn ổn định và tăng cường huy động nguồn vốn dài
hạn để cho vay đầu tư các dự án trung, dài hạn.
- Triển khai
rộng các mạng lưới giao dịch ở các KCN và các vùng nông thôn để thu hút nguồn
vốn và mở rộng đầu tư.
- Cho vay đầu tư
tín dụng gắn với yêu cầu phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn.
- Nâng cao năng
lực cạnh tranh, cơ cấu lại nợ, tăng vốn tự có, thực hiện tốt công tác xử lý nợ
tồn đọng, chấn chỉnh, củng cố hệ thống ngân hàng và hệ thống quỹ tín dụng nhân
dân trên địa bàn theo chủ trương và quy định chung.
- Đẩy mạnh kinh
doanh ngoại tệ, đồng thời tăng cường công tác quản lý ngoại hối nhằm mục tiêu
tăng nguồn ngoại tệ cho ngân hàng, đảm bảo thực hiện đúng chính sách quản lý
ngoại hối của nhà nước.
Hoạt
động xuất, nhập khẩu:
Nhiệm
vụ:
- Phát triển
xuất khẩu tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP.
Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh đồng thời
tích cực phát triển các mặt hàng có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản
phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao.
- Phấn đấu đạt
tốc độ tăng trưởng bình quân là 20 –22%/năm.
- Cơ cấu xuất
khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu những mặt hàng có giá
trị gia tăng cao, các sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao.
- Cơ cấu hàng
nhập khẩu: Chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất; nhưng
tương lai gần là hàng tiêu dùng ngày càng tăng trở lại và chiếm tỷ trọng lớn
hơn hiện nay, vì việc thực hiện các cam kết quốc tế, tự do hóa thương mại, dịch
vụ trong tiến trình hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu
máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu vẫn chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt là máy
móc, thiết bị.
Giải
pháp thực hiện:
- Tập trung đầu
tư vào các ngành hàng chủ lực với các dự án nâng cao cấp độ chế biến, tạo nguồn
nguyên liệu cho mặt hàng chủ lực xuất khẩu từ đó nâng cao năng lực, hiệu quả
cạnh tranh.
- Cơ khí hóa công nghiệp, nông thôn:
- Cơ giới hóa
khâu làm đất và cải tạo đồng ruộng; gieo trồng; làm cỏ; phun thuốc trừ cỏ, bảo
vệ thực vật; thu hoạch; phân phối thức ăn cho gia súc, gia cầm trong các chuồng
trại chăn nuôi; hệ thống bảo quản sản phẩm chăn nuôi.
- Thiết lập các
tổ hợp, cụm, dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, các cụm sấy, sơ chế nông
sản, gắn vùng nguyên liệu với nhà máy chế biến.
- Trang bị các
máy đào kênh mương, nạo hút bùn...
- Đầu tư chiều
sâu, cải tiến các thiết bị công nghệ phục vụ cho các cơ sở, doanh nghiệp chế
biến.
- Tăng cường
công tác ứng dụng và chuyển giao kỹ thuật công nghệ, hướng dẫn sử dụng, giới
thiệu sản phẩm máy móc thiết bị cơ khí nông nghiệp.
- Xây dựng các
dự án đầu tư chiều sâu, phát huy năng lực thiết bị, nâng cao chất lượng sản
phẩm của các doanh nghiệp cơ khí sản xuất các sản phẩm phong phú về chủng loại,
giá thành rẻ để phục vụ chế biến hàng nông sản.
Chuyển đổi cơ
cấu cây trồng vật nuôi:
- Đẩy mạnh việc
hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung, áp dụng kỹ thuật thâm canh
các cây trồng, vật nuôi có thế mạnh của tỉnh để tạo ra sản phẩm hàng hóa có
chất lượng cao, sản lượng lớn, phục vụ chế biến và xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, phát triển
ngành nghề trên cơ sở tận dụng tối đa các lợi thế về thị trường để sớm hình
thành sự liên kết chặt chẽ công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp ngay trên địa
bàn nông thôn.
- Tập trung quản
lý và bảo vệ vốn rừng hiện có: 154.873 ha. Tiếp tục đầu tư trồng mới trên diện
tích đất lâm nghiệp có khả năng trồng rừng 4.247 ha, khoanh nuôi phục hồi rừng
tự nhiên 2.520 ha, tác động nâng cao khả năng phòng hộ đối với diện tích trồng
cây công nghiệp, cây ăn trái dài ngày trên đất lâm nghiệp 12.717 ha để phấn đấu
đến năm 2010 toàn tỉnh có 178.540 ha rừng và rừng đặc sản có tác dụng phòng hộ.
Kiên cố kênh
mương và các công trình thủy lợi:
- Xây dựng hồ
Lộc An, hồ Cầu Mới, hồ Phú An, hồ Gia Măng.
- Xây dựng các
trạm bơm: Tà Lài, Đắc Lua, Tân Khai, Miếu Vạn, Cao Cang, Thạnh Phú, Ấp 6, Ấp 2
Tân Phú, Phú Lập, Hiếu Liêm, Ấp 3, Cây Gáo, Phú Điền.
- Nạo vét suối
Săn Máu, suối Sâu, tiêu thoát lũ lò rèn Nhơn Trạch và thoát lũ ven thị xã Long
Khánh.
- Xây dựng 33
công trình điểm chứa nước tại các lâm trường để phục vụ công tác phòng và chữa
cháy rừng, phục vụ sản xuất và có nơi nuớc uống cho thú rừng.
Phát triển
thủy sản:
- Nâng cao chất
lượng con giống thông qua biện pháp chuyển giao công nghệ, công tác kiểm tra
chất lượng các cơ sở sản xuất và buôn bán con giống và thực hiện công tác cải
thiện đàn cá bố mẹ.
- Nghiên cứu sản
xuất và thuần hóa những loài cá bản địa sông Đồng Nai có giá trị kinh tế cao:
thác lác, leo, sặc rằn … để phát triển nghề nuôi và giảm áp lực khai thác trong
tự nhiên.
- Đẩy mạnh phát
triển nghề nuôi tôm càng xanh, đồng thời chủ động sản xuất con giống tôm càng
xanh.
- Về giống tôm
sú: Chuyển từ các khu vực của các địa phương lân cận vào thuần dưỡng ở các cơ
sở kinh doanh giống, sau đó cung cấp cho người nuôi.
- Tổ chức lại
phương thức quản lý các hồ chứa dưới 1.000 ha trong việc kết hợp nuôi trồng
thủy sản và phục vụ nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp.
Phương thức quản
lý cộng đồng: hợp tác xã, tổ đoàn kết, tổ khai thác là phương thức tối ưu để sử
dụng nguồn lợi này, vừa giải quyết xóa đói giảm nghèo ở nông thôn.
Đầu tư phát
triển nông nghiệp nông thôn miền núi, vùng khó khăn:
- Phát triển
kinh tế – xã hội ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các xã nghèo đặc
biệt khó khăn phải dựa trên cơ sở phát triển kinh tế hàng hóa. Phát triển phải
toàn diện, trọng tâm là phát triển kinh tế – xã hội gắn với thực hiện tốt chính
sách dân tộc, miền núi của Đảng và nhà nước.
- Chú trọng đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nhằm khắc phục sự chênh lệch lớn
về trình độ phát triển kinh tế – xã hội giữa các vùng và giữa các dân tộc.
- Tập trung giải
quyết dứt điểm các dự án về đầu tư cơ sở hạ tầng thuộc các chương trình, dự án:
134,135, ổn định dân di cư tự do, định canh định cư, trung tâm cụm xã, hỗ trợ
đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, sắp xếp bố trí quy hoạch dân cư nông
thôn....
- Xác định các
cây, con phù hợp với lợi thế về đất đai, lao động của từng vùng, từng địa
phương, tập quán canh tác, chăn nuôi của nông thôn miền núi để từng bước tạo ra
các sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Có cơ chế,
chính sách phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển đổi kinh tế, trong
đó chú trọng khai thác các tiềm năng về đất đai, lao động, đẩy mạnh phát triển
lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, ngành nghề thủ công, gắn việc giao đất
giao rừng với việc phát triển hàng hóa, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch
vụ.
- Các chương
trình xóa đói giảm nghèo, dự án phát triển kinh tế – xã hội miền núi, các xã
đặc biệt khó khăn, định canh định cư, cần tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai và
kiểm tra, chỉ đạo sâu sát nhằm tạo việc làm, ổn định đời sống cho đồng bào.
- Có chính sách
đầu tư hỗ trợ cho việc định cư và tái định cư của đồng bào, chú ý tới tập quán
sinh hoạt của đồng bào và giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc trong cộng đồng
PHẦN
III: ĐỒNG NAI TRÊN ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
-
Là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, kết nối với ba vùng Đông Nam bộ, Nam Trung bộ và Tây
Nguyên, gần Thành phố Hồ Chí Minh (cách 30km), Đồng Nai có nhiều lợi thế để
phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ nhất, có hệ thống giao thông
thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết mạch quốc gia đi qua như quốc lộ 1A,
quốc lộ 20, quốc 51; tuyến đường sắt Bắc – Nam; nhiều ttuyến đường liên tỉnh và
các cảng Long Bình Tân, Gò Dầu, Phú Mỹ,… gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân
Sơn Nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong vùng cũng như
giao thương với cả nước và quốc tế. Thứ hai, có nền đất lý tưởng, kết cấu có độ
chịu nén tốt, thuận tiện cho đầu tư xây dựng các KCN. Thứ ba, có nguồn nước
phong phú không chỉ cung cấp cho Đồng Nai mà còn cho Thành phố Hồ Chí Minh,
Bình Dương. Thứ tư, có nguồn điện năng dồi dào từ các Nhà máy Thủy điện Trị An,
Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế. Bên cạnh lưới
điện quốc gia, Đồng Nai còn có Công ty liên doanh Amata Power cung cấp điện cho
KCN Amata và các KCN lân cận.
Bên cạnh đó, Đồng Nai còn có nhiều
nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú như vàng, thiếc, kẽm, nhiều mỏ
đá, cao lanh, than bùn, đất sét, cát sông; rừng và nguồn nước, … rất thuận lợi
cho phát triển các ngành nghề như: sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ, mỹ nghệ…
Trên cơ sở những tiềm năng, thế mạnh
sẵn có, với ý chí quyết tâm và đồng thuận cao, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Đồng Nai đã vượt qua những cản trở, khó khăn, nỗ lực phấn đấu xây dựng Đồng Nai
phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội, đồng thời đưa Đồng Nai trở thành một
trong những mắt xích quan trọng của VKTTĐPN.
Sau hơn 30 năm xây dựng và phát
triển, từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đồng Nai đã vươn lên trở thành
một trong những tỉnh có GDP bình quân đầu người cao nhất cả nước, và có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, bình quân đạt khoảng 12,8%/năm. Quá trình phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh diễn ra đúng theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, trong đó công nghiệp
giữ vai trò chủ đạo, tạo điều kiện thúc đẩy các nền kinh tế khác phát triển,
nhất là dịch vụ và nông nghiệp
Sản xuất công nghiệp của Đồng Nai đã
có những bước chuyển mạnh về chất với sự hình thành một số ngành công nghiệp
chủ lực như: công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, công nghiệp cơ khí và
luyện kim, công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp sản
xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng, công nghiệp điện tử và viễn thông, … công
nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn và ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất
từng bước được đẩy mạnh.
Tỉnh Đồng Nai là địa phương đi đầu
trong cả nước về xây dựng và phát triển KCN. Các KCN của Đồng Nai phát triển
mạnh cả về số lượng, khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài lẫn diện tích đất
cho thuê. Đồng Nai cũng là một trong số ít địa phương thu hút được nhiều dự án
có qui mô vốn trên 100 triệu USD (Formosa – Đài Loan, Vedan – Singapore &
Đài Loan, Hualon – Malaysia & Đài Loan, Fujitsu – Nhật Bản …). Vốn đầu tư nước
ngoài đã thật sự trở thành nguồn lực quan trọng để đầu tư phát triển sản xuất,
tạo nguồn thu ngân sách lớn, góp phần phát triển kinh tế địa phương, nhất là
đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu
tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài, trong những năm gần đây, Đồng Nai luôn
chú trọng và tích cực thực hiện “hai cải” – đó là cải thiện môi trường đầu tư
và cải cách thủ tục hành chính theo hướng toàn diện, công khai, minh bạch, đơn
giản, nhanh chóng, kip thời cùng với các phương châm “chính quyền đồng hành
cùng doanh nghiệp”, “chính quyền phục vụ doanh nghiệp”.
Nhiều chương trình xúc tiến thương
mại, đầu tư trong và ngoài nước đã được lãnh đạo tỉnh Đồng Nai tổ chức thực
hiện đạt hiệu quả cao, tạo tiền đề thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, các loại hình dịch vụ
bưu chính, viễn thông, vận tải, du lịch, tài chính – tín dụng, … cũng được đầu
tư kịp thời.
Cùng với phát triển kinh tế, các vấn
đề bức xúc của xã hội cũng được tỉnh Đồng Nai giải quyết có hiệu quả. Trong đó,
giải quyết việc làm cho người lao động luôn được các cấp, các ngành ở địa
phương đặc biệt quan tâm. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng
được cải thiện, an ninh xã hội được giữ vững và niềm tin của nhân dân đối với
sự nghiệp đổi mới ngày càng được nâng cao.
Trong thời gian tới, Đồng Nai sẽ tập
trung thực hiện chuyển dịch kinh tế theo chiều sâu, hình thành và phát triển
các khu công nghệ cao, phát triển kinh tế tri thức, đầu tư một số sản phẩm mũi
nhọn của địa phương, tăng hàm lượng chất xám trong các sản phẩm công nghiệp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Mở rộng các loại hình dịch vụ phục vụ cho
sản xuất và đời sống, nhất là ở các khu công nghiệp và đô thị. Riêng khu vực
kinh tế nông nghiệp, tiếp tục đẩy mạnh các chương trình công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, tăng cường áp dụng khoa
học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp,… Ngành công nghiệp tiếp tục giữ vai trò,
vị trí then chốt trong phát triển kinh tế, trong đó công nghiệp chế biến góp
phần gia tăng giá trị cho sản phẩm nông nghiệp, thúc đẩy ngành thương mại –
dịch vụ phát triển, tạo đà cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và đúng
hướng. Phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các thành phần kinh tế để phát triển ổn
định, vững chắc, trong đó khuyến khích đầu tư nước ngoài và các ngành công
nghiệp có trình độ công nghệ cao.
Đầu tư nước ngoài tiếp tục được xem
là động lực giúp địa phương khơi dậy và phát huy tốt hơn nữa các lợi thế của
mình, góp phần tạo ra cho Đồng Nai sức bật mới.
Những tiềm năng, lợi thế luôn được
tận dụng, phát huy, sự phát triển năng động trong thời kỳ đổi mới cùng với khát
vọng vươn lên đó chính là những yếu tố quyết định để giúp Đồng Nai vững
bước xây dựng tương lai ngày càng văn minh giàu đẹp.
BAN CÁN SỰ SƯU TẦM TỪ NGUỒN THÔNG TIN SỞ KẾ
HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TỈNH ĐỒNG NAI
CÁC ĐỒNG CHÍ THAM KHẢO, VÌ MÔN NÀY KHÔNG CÓ
HỆ THỐNG CÂU HỎI, TRẢ LỜI!
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)